Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2008

CHƯƠNG II LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

CHƯƠNG II

LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Chúng tôi hân hạnh gặp lại anh/chị trong chương thứ 2 của môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Chương này sẽ trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa; nó ra đời, tồn tại và phát triển như thế nào qua các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người, nhất là từ khi C.Mác - Ph.Ăngghen xây dựng lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học cho đến ngày nay.

Chương này gồm 3 phần chính:

Phần 1: Khái niệm và phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Phần 2: Lược khảo tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác

Phần 3: Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học

Mục tiêu chung:

Sau khi học xong chương này, anh/chị có thể nắm rõ được sự hình thành, phát triển của Chủ nghĩa xã hội khoa học từ lịch sử đến hiện tại.

Mục tiêu cụ thể:

Sau khi học xong chương này, anh/chị có thể hiểu được nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng như các giai đoạn phát triển của nó; hiểu rõ được nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, từ đó nhận thức được bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa xã hội khoa học, có thái độ khách quan và niềm tin vào lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học trong giai đoạn hiện nay.

Sau khi học xong, anh/chị dành thời gian để trả lời những câu hỏi và bài tập ở cuối mỗi nội dung và cuối bài học.

Thời gian dành cho bài này là 150 phút.

PHẦN 1: KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

GIỚI THIỆU

Phần này giới thiệu với các anh/chị quan niệm về tư tưởng xã hội chủ nghĩa và từ khi ra đời tới nay nó thể hiện dưới những hình thức nào?

Sau khi học xong phần này, anh chị có thể hiểu và nắm rõ được:

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là gì?

- Các hình thức biểu hiện của tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong lịch sử và hiện nay.

Anh/chị nên hoàn thành phần này trong 45 phút.

NỘI DUNG

1.1 Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là gì?

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là hệ thống những quan điểm về những nhu cầu hoạt động thực tiễn và những ước mơ của các giai cấp lao động, bị thống trị; về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh nhằm thực hiện một chế độ xã hội mà trong đó, tư liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội, không có áp bức và bóc lột, bất công, mọi người được bình đẳng về mọi mặt và đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.

Có thể hiểu tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một hệ thống quan điểm phản ánh ba nội dung cụ thể sau đây:

- Sự phản kháng của quần chúng nhân dân lao động, những người bị áp bức, bóc lột chống lại các giai cấp thống trị bóc lột;

- Phản ánh những ước mơ, nguyện vọng của nhân dân lao động hướng về một xã hội công bằng, bình đẳng, về một cuộc sống hạnh phúc và cuộc đấu tranh để thực hiện những ước mơ, nguyện vọng đó;

- Phản ánh sự tìm tòi những mô hình, con đường và những bước đi để xây dựng được xã hội công bằng, bình đẳng, văn minh, tạo ra những điều kiện đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người.

1.2 Phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Tiêu chí để phân loại:

+ Căn cứ vào quá trình lịch sử hình thành các tư tưởng xã hội chủ nghĩa (điều kiện kinh tế, xã hội);

+ Căn cứ vào tính chất, trình độ phát triển của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa .

Các loại hình tư tưởng xã hội chủ nghĩa:

+ Phân theo dòng lịch sử có: tư tưởng xã hội chủ nghĩa cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại;

+ Phân theo trình độ phát triển có: chủ nghĩa xã hội sơ khai, chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán, chủ nghĩa xã hội khoa học;

+ Kết hợp cả hai tiêu chí trên.

Các biểu hiện của tư tưởng xã hội chủ nghĩa:

- Là quan niệm về một chế độ xã hội mà mọi tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên, thuộc về toàn xã hội

- Là tư tưởng về một chế độ xã hội mà ở đó ai cũng có việc làm và ai cũng lao động

- Là những tư tưởng về một xã hội, trong đó mọi người đều bình đẳng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mọi người đều có điều kiện để lao động, cống hiến, hưởng thụ và phát triển toàn diện.

BÀI TẬP

Anh/chị hãy chọn phương án trả lời đúng bằng cách khoanh tròn vào chữ cái tương ứng

1. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa được hiểu như thế nào?

a) Là hệ thống quan điểm phản ánh con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội

b) Là ước mơ, nguyện vọng của con người về xã hội mới

c) Là sự phản kháng của quần chúng nhân dân lao động chống mọi sự áp bức, bất công và những mong muốn xây dựng một xã hội mới công bằng bình đẳng.

d) Là những tư tưởng của các nhà không tưởng

2. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa có những biểu hiện như thế nào?

a) Xây dựng một chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản

b) Không còn tư hữu, áp bức bất công, ai cũng có việc làm, được bình đẳng, tự do, hạnh phúc

c) Không có giai cấp và nhà nước, ai cũng được sung sướng, tự do

d) Không có chiến tranh

PHẦN 2: LƯỢC KHẢO TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRƯỚC MÁC

GIỚI THIỆU

Phần này chúng tôi giới thiệu với các anh/chị sự ra đời của tư tưởng xã hội chủ nghĩa qua các thời kỳ lịch sử của nhân loại với những đặc điểm nổi bật và các đại biểu tiêu biểu.

Học xong phần này, các anh/ chị sẽ hiểu được:

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã phát triển qua những giai đoạn, dấu mốc nào?

- Tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác có những giá trị và hạn chế nào? Vì sao?

- Ý nghĩa của phần này đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thời gian học phần này là 60 phút.

NỘI DUNG

2.1. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại và trung đại (từ thời kỳ cuối cộng sản nguyên thuỷ đến thế kỷ XVI)

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên xuất hiện vào cuối xã hội cộng sản nguyên thuỷ, đầu xã hội chiếm hữu nô lệ, khi xã hội có chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa phát triển qua nhiều thời kỳ, song do nhiều yếu tố mà nó không thể tránh khỏi tính chất không tưởng. Thời kỳ cổ đại, tư tưởng xã hội chủ nghĩa mới ở dạng “mầm mống” lẫn vào các hình thái ý thức xã hội khác nhau như: Triết học, tôn giáo, văn học…và qua các phong trào phản kháng của quần chúng lao khổ chống áp bức bất công; Song những tư tưởng về chống áp bức bất công, mơ ước về một xã hội mới tốt đẹp mới chỉ thể hiện chủ yếu trong văn học dân gian truyền miệng, thông qua việc mô tả, thi vị hóa quá khứ cộng sản nguyên thủy và coi đó là một thời đại hoàng kim.

Thời kỳ trung đại chủ yếu là lịch sử của chế độ phong kiến ở châu Âu (từ thế kỷ V đến XV). Thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp của nông dân và thợ thủ công chống chế độ phong kiến và giáo hội. Do tương quan lực lượng và điều kiện lịch sử, chống giáo hội nhưng phong trào lại khoác áo tôn giáo. Do vậy, phong trào này thường được gọi là “dị giáo”. Thực chất, đó là những yếu tố cộng sản mang màu sắc tôn giáo và tính tiểu tư sản. Nhưng tinh thần cộng sản và tính chiến đấu thể hiện khá triệt để và rõ rệt.

2.2. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ đầu thế kỷ XVI-XVII

Thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện thông qua các tác phẩm văn học nổi tiếng như: Đảo không tưởng (T.Morơ 1478 - 1535); Thành phố Mặt trời (T. Campanenla 1478 - 1652). Ngoài ra, thời kỳ này Cuộc khởi nghĩa của Uynxtenly (1609 - 1652)- phái Đào đất cũng đánh dấu bước phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

- T.Morơ có tư tưởng nổi bật trong tác phẩm "không tưởng" là phê phán xã hội châu Âu và nước Anh, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của nạn khổ đau, áp bức bất công đó là do chế độ tư hữu. Từ đó ông đi đến kết luận phải thủ tiêu chế độ tư hữu. T.Morơ cũng đã phác họa ra mô hình về một xã hội mới không có áp bức bất công. Song do nhận thức và cả điều kiện lịch sử nên nó không thể tránh khỏi tính chất không tưởng. Ông đã dùng hình ảnh “cừu ăn thịt người” để miêu tả hậu quả của tình trạng tích lữu nguyên thủy tư bản chủ yếu ở nước Anh đầu thế kỷ XVI. Giai cấp tư sản vừa mới ra đời đã bóc lột người lao động tàn bạo, gây ra cảnh chết chóc của nhiều người dân nghèo.

- T.Campanenla, đại biểu nước Ý, trong tác phẩm Thành phố Mặt trời đã phê phán xã hội quân chủ nước Ý giống như “bệnh dịch nguy hiểm” cần phải loại bỏ. Ông kịch liệt phê phán giai cấp quý tộc - phong kiến nước Ý “chỉ quan tâm đến giống ngựa, giống chó nhằm mục đích đua và cá cược”, trong khi đó người lao động nghèo khổ chết đói, chết khát nhưng không được quan tâm. Ông cũng chỉ ra nguyên nhân của những bất công đó là do chế độ tư hữu và đặt nhiệm vụ là thủ tiêu chế độ tư hữu. Xã hội mới phải đặt trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, quan điểm về chế độ công hữu của ông cũng còn rất nhiều điều hạn chế.

2.3. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ XVIII

Đây là thời kỳ đánh dấu sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản trước chế độ phong kiến ở hàng loạt các nước châu Âu. Cuộc cách mạng tư sản Pháp diễn ra gay go, dai dẳng giữa các tập đoàn quý tộc, bảo thủ với bộ phận tư sản mới hình thành. Chiến tranh, nội chiến cùng với sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị đã làm cho mâu thuẫn giai cấp càng tăng tính gay gắt. Các phong trào phản kháng của nhân dân lao động chống giai cấp thống trị diễn ra mạnh mẽ. Đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng có xu hướng phê phán và đòi xóa bỏ chế độ đương thời nước Pháp bằng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Thế kỷ XVIII có các đại biểu tiêu biểu như: G.Mêlie, Mably, Morenly và đặc biệt là phong trào thực tiễn và lý luận xã hội chủ nghĩa của G.Babớp. Các đại biểu này đều của nước Pháp.

G.Babớp (1760 - 1797) là người khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của những người lao động nghèo khổ mà trước hết là giai cấp vô sản vừa mới xuất hiện ở nước Pháp chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản Pháp. Cuộc khởi nghĩa G.Babớp với Cương lĩnh hành động của những người bình dân, lần đầu tiên trong lịch sử, vấn đề đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội được đặt ra với tính cách là một phong trào thực tiễn, chứ không chỉ là tư tưởng, lý luận, càng không phải chỉ là ước mơ, khát vọng của quần chúng nhân dân lao động.

2.4. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này đã phát triển thành học thuyết, tiêu biểu là học thuyết về giai cấp, xung đột giai cấp của H. XanhXimông, quan niệm về “xã hội hài hoà”, “xã hội đảm bảo” của S.Phuriê và tư tưởng xóa bỏ chế độ tư hữu của R.Ô-oen.

- H.Xanh Xi mông (1769 - 1825). Một trong những nội dung nổi bật trong tư tưởng của Xanh Xi mông là lý luận giai cấp và xung đột giai cấp. Theo ông, xã hội đương thời chia thành ba giai cấp: quý tộc, nhà tư tưởng, nhà công nghiệp, trong đó, giai cấp nhà công nghiệp là giai cấp trí tuệ, có khả năng quản lý đất nước.

Trong giai cấp nhà công nghiệp ông đã phân biệt thành hai nhóm: một bên là giai cấp ít ỏi những người sở hữu; một bên khác đông đảo những người không có của. Ông nhận thấy cuộc đấu tranh giữa những người không có của và những người sở hữu là điều không tránh khỏi. Vào cuối đời, Xanh Xi mông đã có ý niệm cho rằng, cơ sở của xã hội thuộc về giai cấp “những người công nhân làm lao động thủ công”, do vậy, giải phóng giai cấp cần lao là mục đích cuối cùng của ông.

Xanh Xi mông có thái độ phê phán đối với cách mạng tư sản Pháp vì nó chưa triệt để, chưa đem lại quyền lợi cho giai cấp nghèo khổ nhất và đông đảo nhất, do đó theo ông cần phải có một cuộc cách mạng mới. Ông phê phán gay gắt xã hội vô chính phủ công nghiệp Pháp và cho rằng đó là xã hội “lộn ngược”: người nghèo phải rộng lượng với người giàu; kẻ phạm tội lớn nhất có quyền trừng phạt những lỗi lầm nhỏ nhất; kẻ không có năng lực, vô đức hạnh lại đi điều khiển và dạy đức hạnh cho nhân dân... Ông mơ ước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn mà ở đó phân phối của cải phải có lợi cho đa số.

Tuy nhiên, khi thực hiện mơ ước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp Xanh Xi mông lại chủ trương đi theo con đường hoà bình, vì vậy, tư tưởng của ông đã trở thành ảo tưởng, không tưởng.

- Sáclơ Phuriê (1772 - 1837)

Ông xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ của nước Pháp. Là người có khả năng nhận thức đặc biệt, mặc dù thời nhỏ ông không được học ở trường nhiều. Một trong những tư tưởng đặc sắc của Phuriê đó là phê phán và lên án xã hội tư sản một cách sâu sắc, vì theo ông, đó là một “trạng thái vô chính phủ của công nghiệp”, trong đó “sự nghèo khổ sinh ra chính từ sự thừa thãi”. Ông kịch liệt phê phán tình trạng cạnh tranh diễn ra trong nền thương nghiệp tư bản chủ nghĩa mà hậu quả của nó là thị trường rối loạn và người lao động bị bần cùng hoá.

Phuriê phê phán đạo đức trong xã hội tư sản đương thời vì nó hạn chế, bắt bẻ, phiền phức đối với người nghèo, trong khi đó nó lại là mặt nạ để cho người giàu che đậy một âm mưu, hành động tội ác. Theo ông, trong xã hội tư sản, người nghèo chỉ bình đẳng trên danh nghĩa, còn trên thực tế họ phải chịu đựng mọi bất bình đẳng và rơi vào cạm bẫy của người giàu. Ông phê phán gay gắt hôn nhân tư sản vì thực tế nó là sự giao kèo buôn bán, hợp thức hoá sự sa đoạ làm cho phụ nữ bị mất quyền. Phuriê coi việc giải phóng phụ nữ là thước đo mức độ tự do trong mọi xã hội.

Nét đặc sắc trong tư tưởng của Phuriê là ông đã nêu quan niệm biện chứng về lịch sử. Ông chia lịch sử xã hội loài người thành 4 giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Ông cũng chia sự phát triển của mỗi chế độ xã hội thành bốn giai đoạn phát triển tương ứng như bốn giai đoạn của cuộc đời con người: thơ ấu, thanh niên, trưởng thành và tuổi già. Theo ông, nước Pháp, Anh lúc đó đang ở giai đoạn văn minh thứ ba và ngả sang giai đoạn tuổi già và ông hy vọng, sau giai đoạn này, xã hội đi vào một thời kỳ mới - thời kỳ văn minh của những “bảo đảm xã hội”, tiến lên giai đoạn “xã hội hài hoà”, trong đó có sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trên cơ sở tổ chức các hiệp hội làm ăn tập thể mà ông gọi là phalănggiơ. Ông quan niệm trong xã hội hài hoà tất cả mọi năng lực của con người sẽ được hoàn thiện, cá nhân con người sẽ được phát triển tới mức chưa từng thấy.

Tuy nhiên, con đường đạt tới xã hội hài hoà của Phuriê là hoà bình, nhờ vào sự giúp đỡ của những kẻ có quyền hành và tiền của. Ông phản đối bạo lực. Do vậy, ông không vượt qua được những bậc tiền bối của mình khi tìm biện pháp xây dựng xã hội mới và tư tưởng của ông chỉ dừng lại ở sách vở.

Rôbớt Ô-oen (1771 - 1858)

Ông sinh trong một gia đình thủ công ở thị trấn nhỏ (nước Anh). Tuổi thơ của ông khá cực nhọc phải đi làm thuê từ lúc 9 tuổi, nhưng ông có chí khí vươn lên và trở thành người kinh doanh thành đạt. Cuộc đời của ông gắn liền với sự chăm lo cho những người công nhân lao động cùng khổ. Ông dã từng hai lần dành toàn bộ của cải của mình để thực nghiệm mô hình xã hội cộng sản chủ nghĩa (tuy cả hai lần cuối cùng đều thất bại).

Một trong những nội dung nổi bật trong tư tưởng của R.Ô-oen là quan niệm của ông khi bàn về bản chất con người. Theo ông, bản chất con người được hình thành thông qua sự tác động qua lại giữa con người với con người diễn ra ở môi trường bên ngoài, trong đó những tác động có tính khách quan đến việc hình thành bản chất con người có ý nghĩa quan trọng nhất. Xã hội tương lai dựa trên sự hiểu biết khoa học về các quy luật của bản chất con người, sẽ là một xã hội hài hoà, một xã hội thực sự là của con người.

Ô-oen là người có khuynh hướng duy vật và tiến bộ hơn so với những đại biểu không tưởng cùng thời, khi cho rằng sự phát triển của lịch sử gắn liền với sự thay đổi trong các phương thức sản xuất. Theo ông, “lực lượng vật chất đang chín muồi trong lòng xã hội, cuối cùng sẽ dẫn đến sự thay đổi xã hội và đây là nấc thang cần thiết, chuẩn bị dẫn đến cuộc cách mạng vĩ đại và quan trọng”. Ô-oen lên án và phủ nhận sâu sắc chế độ tư hữu vì nó làm cho người sở hữu tài sản trở thành ngu muội, ích kỷ và tính ích kỷ đó tỷ lệ thuận với số lượng tài sản của họ; nó làm cho con người xa cách nhau, thù hằn nhau, tàn sát, chém giết lẫn nhau bởi các cuộc chiến tranh tàn khốc. Nó là nguyên nhân gây ra tất cả các tiêu cực và sự bất hợp lý trong xã hội. Ô-oen đi tới kết luận phải xoá bỏ chế độ tư hữu.

Để xây dựng xã hội mới theo Ô-oen chỉ còn cách là thay chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu và xây dựng công xã là cơ sở của xã hội mới, ở đó mọi thành viên sẽ sống như một gia đình. Nguyên tắc hoạt động của công xã: lao động tập thể, cộng đồng sở hữu, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa tất cả các thành viên. Công xã sẽ đảm bảo cho mọi thành viên có điều kiện để phát triển.

Tuy nhiên, về con đường và phương pháp đi tới xã hội mới cũng giống như Xanh Xi mông, Phuriê, R.Ô-oen cũng cho rằng chỉ có thể bằng con đường hoà bình, bằng cách tuyên truyền, giải thích những chân lý cơ bản thì mới có thể hoàn thành được cuộc cách mạng vĩ đại. Ông trông chờ vào sự thức tỉnh của các chính phủ và ông chủ trương thuyết phục các chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc, tạo điều kiện thuận lợi để ông thực hiện cuộc cải cách của mình. Chính vì vậy, tư tưởng tốt đẹp của ông đã rơi vào không tưởng khi đưa ra thực hiện trên thực tế.

2.5. Giá trị và hạn chế của tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác

Những giá trị:

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác có 4 giá trị cơ bản, đó là :

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác ở mức độ khác nhau đã lên án, phê phán chủ nghĩa tư bản một cách sâu sắc ngay từ khi nó mới ra đời. Họ đã phần nào nói lên tiếng nói của những người lao khổ, bênh vực họ trước tình trạng bị đối xử bất công và bị áp bức trong xã hội. Các ông không chỉ miêu tả những hiện tượng bất công trong xã hội tư bản mà còn từng bước đi sâu tìm ra những nghịch lý trong xã hội ấy. Dưới con mắt quan sát của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa lúc đó, chủ nghĩa tư bản được miêu tả như hiện tượng: "cừu ăn thịt người" của Tômát Morơ (thế kỷ XVI); "bệnh dịch nguy hiểm" của Campanenla (thế kỷ XVII); "bức tranh lộn ngược" của Xanh Ximông, "xã hội vô chính phủ công nghiệp" của Phuriê (thế kỷ XIX)... và do đó, theo các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xã hội tư bản cần phải bị loại bỏ và thay thế bằng xã hội khác.

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đã nêu lên nhiều luận điểm có giá trị, nhiều dự đoán tài tình về sự phát triển của xã hội, về một xã hội tương lai tốt đẹp hơn mà sau này các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có phê phán và luận chứng chúng trên cơ sở khoa học. Tiêu biểu là mô hình "Hòn đảo không tưởng" của T.Morơ (thế kỷ XVI); "Thành phố Mặt trời" của Campanenla (thế kỷ XVII) và mô hình "Công xưởng Niulanác" của Ô-oen (thế kỷ XIX). Trong các mô hình này cũng như trong tư tưởng của một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã nêu lên tư tưởng về một xã hội tương lai, ở đó: xây dựng chế độ sở hữu chung (công cộng); phân phối công bằng (có lợi cho đa số); ai cũng phải lao động và mọi dạng lao động được coi trọng như nhau; không có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn; trẻ em được giáo dục miễn phí, phụ nữ được giải phóng; không có chiến tranh; nhà nước sẽ đi tới tiêu vong...

Ăngghen cho rằng, mặc dù những dự đoán trên đây còn đầy chất ảo tưởng, nhưng đây là những dự đoán hết sức thiên tài, là những hạt ngọc lấp lánh mà sau này các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc khi các ông xây dựng mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

- Trong một giai đoạn lịch sử tương đối dài, với những tư tưởng tiến bộ và bằng những hoạt động của mình, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng lao khổ và thúc đẩy lịch sử tiến lên không chỉ về mặt lý luận mà còn về cải tạo xã hội. Do đó, chủ nghĩa xã hội trước Mác có giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hy sinh địa vị xuất thân, tiền bạc, thậm chí bằng cả tính mạng nhằm thay đổi chế độ xã hội để giải phóng cho quần chúng lao động và đấu tranh giành quyền bình đẳng cho họ.

- Với các giá trị nêu trên, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác, nhất là tư tưởng của xã hội chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX của Xanh Ximông, Phuriê và Ô-oen được Mác - Ăngghen thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của của học thuyết mà các ông xây dựng - học thuyết Mác-Lênin và là tiền đề tư tưởng của Chủ nghĩa xã hội khoa học.

V.I.Lênin đã viết: "Chủ nghĩa xã hội lý luận Đức sẽ không bao giờ quên rằng nó đứng trên vai của Xanh Ximông, Phuriê và Ô-oen - mặc dù học thuyết của ba ông còn đầy tính chất ảo tưởng và không tưởng- đã được liệt vào hàng những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của tất cả các thời đại, và đã dự kiến một cách tài tình được rất nhiều chân lý mà ngày hôm nay chúng ta đem khoa học ra chứng minh đều thấy là đúng"1

Những hạn chế:

+ Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác phê phán chủ nghĩa tư bản đã gây ra tình trạng bất công, nhưng họ chưa khám phá ra bản chất và quy luật vận động của xã hội tư bản; không giải thích đúng được nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cảnh bất công, nghèo đói... là do chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa tạo ra (trừ R.Ôoen).

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác chưa phát hiện được lực lượng xã hội đang phát triển trong lòng xã hội tư bản, có lợi ích mâu thuẫn đối kháng với lợi ích của giai cấp tư sản, có khả năng cải tạo xã hội bất công để xây dựng một xã hội mới không còn áp bức, bóc lột, bất công, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô sản.

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác chưa ai tự đặt mình là người đại diện cho quyền lợi của giai cấp vô sản và quần chúng lao động nghèo khổ và đấu tranh giải phóng họ. Các nhà không tưởng luôn đứng trên lập trường của giai cấp, tầng lớp trên (quý tộc, tư sản), đứng ngoài xã hội để mưu giải phóng toàn xã hội. Họ không gắn học thuyết của mình với phong trào đấu tranh của quần chúng.

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đứng trên quan điểm duy tâm để cải tạo xã hội. Họ muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp nhưng bằng con đường cải cách dần dần, bằng giáo dục, bằng thực nghiệm, bằng cảm hoá giai cấp tư sản và tầng lớp trên của xã hội chứ không phải bằng con đường đấu tranh giai cấp và cải biến cách mạng. Đó là "con đường cải lương nửa vời" và không tưởng.

Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác không thể tự giải thoát mình khỏi vòng không tưởng. Ngay cả những luận điểm đúng đắn nhất do các nhà không tưởng nêu ra cũng mới chỉ là những dự đoán, chưa được luận chứng bởi một cơ sở khoa học và thực tiễn. Sự diệt vong của xã hội cũ, sự ra đời của xã hội mới vẫn chỉ là những giấc mơ mang tính viển vông, những mong muốn chủ quan của con người, chưa có điều kiện vật chất khách quan, do đó nó đều thất bại khi đưa vào thực tế.

Tóm lại, Chủ nghĩa xã hội không tưởng là những lý luận, những học thuyết biểu hiện dưới dạng chưa chín muồi nguyện vọng của quần chúng mong muốn xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, tình trạng bất công trong xã hội, mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, ở đó không còn tình trạng đói khổ của những người lao động, mong có một xã hội tốt đẹp mà quan hệ giữa người và người là quan hệ hữu ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, những mong muốn, nguyện vọng, những dự án tốt đẹp đó không dựa vào điều kiện thực tiễn khách quan mà nảy sinh từ đầu óc, từ những mong muốn chủ quan của một số người, vì vậy không thực hiện được trong thực tế và nó trở thành ảo tưởng, không tưởng.

V.I.Lênin khẳng định: Chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được một lối thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong chủ nghĩa tư bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa và cũng không tìm thấy được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới2.

BÀI TẬP

Anh/chị hãy chọn phương án trả lời đúng nhất bằng cách khoanh tròn vào chữ cái:

1. Chủ nghĩa xã hội trước Mác có những giá trị gì?

a) Phác thảo ra mô hình xã hội mới ở đó không có áp bức, bất công

b) Tìm tòi cách thức đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản

c) Phê phán giai cấp tư sản áp bức, bóc lột

d) Giúp giai cấp công nhân xây dựng chính đảng của mình - Đảng cộng sản

2. Chủ nghĩa xã hội trước Mác tại sao lại rơi vào không tưởng?

a) Không tuân theo phương pháp biện chứng cách mạng

b) Không đoàn kết được giai cấp công nhân, nhân dân lao động

c) Chưa chỉ ra được lực lượng cốt lõi để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới

d) Chưa xây dựng được chính đảng tiền phong

PHẦN 3: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

GIỚI THIỆU

Ở phần này, chúng tôi muốn giới thiệu với các anh/chị Chủ nghĩa xã hội khoa học đã ra đời như thế nào? Ai là người sáng lập và từ khi ra đời đến nay, Chủ nghĩa xã hội khoa học đã phát triển như thế nao?

Sau khi học xong phần này, anh/chị có thể hiểu rõ:

- Nguồn gốc (điều kiện) hình thành và phát triển của Chủ nghĩa xã hội khoa học

- Chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển qua các giai đoạn chủ yếu như thế nào?

- Ý nghĩa của nội dung này đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thời gian học cho phần này 45 phút.

NỘI DUNG

3.1 Những điều kiện, tiền đề khách quan, chủ quan cho sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học

a) Những điều kiện khách quan

Chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác, Ăngghen sáng lập giữa những năm 40 thế kỷ XIX ra đời trên những điều kiện khách quan sau đây:

- Điều kiện kinh tế

+ Đến gần giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở một số nước châu Âu đã đạt được những bước tiến rất quan trọng. Cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ làm cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh đã cơ bản hoàn thành và bắt đầu phát triển sang một số nước khác (Pháp, Đức).

+ Cách mạng công nghiệp phát triển đã tạo ra một lực lượng sản xuất mới, đó là nền đại công nghiệp. Nó thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ cả về năng suất lao động, kinh nghiệm quản lý và kinh tế thị trường. Nhờ đó, chỉ trong vòng một trăm năm, từ khi xuất hiện, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra khối lượng của cải khổng lồ bằng cả quãng thời gian trước đó loài người tích luỹ được (C.Mác). Đây chính là điều kiện vật chất, kinh tế quan trọng thúc đẩy xã hội loài người phát triển lên nấc thang cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mặt khác lực lượng sản xuất (đại công nghiệp) không ngừng phát triển và ngày càng có tính chất xã hội hoá cao dẫn tới mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Để giải quyết mâu thuẫn này cần phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ (tư bản chủ nghĩa), thay vào đó một quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn - đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Mác - Ăngghen chỉ rõ: Đại công nghiệp ra đời đã phá sập ngay dưới chân giai cấp tư sản cái nền tảng mà nó đã dựng nên là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

- Điều kiện chính trị - xã hội

+ Cách mạng công nghiệp cũng đồng thời tạo ra một lực lượng xã hội mới, đó là giai cấp vô sản (giai cấp công nhân). Giai cấp vô sản từ khi ra đời đã bị giai cấp tư sản bóc lột và bị bần cùng đã dẫn tới mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản và ngày càng trở lên gay gắt, biểu hiện thành những biến động chính trị lớn (Phong trào Hiến chương ở nước Anh: 1838 - 1848; phong trào đấu tranh của công nhân dệt thành phố Lyông (Pháp): 1831 - 1834; phong trào đấu tranh của công nhân dệt thành phố Xilêdi (Đức): 1844). Sự xuất hiện các phong trào công nhân đã cho Mác - Ăngghen có cơ sở thực tiễn khẳng định giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, có khả năng trở thành lực lượng xã hội quan trọng, có vai trò cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên các phong trào nêu trên đều thất bại mà nguyên nhân chủ yếu của nó, sau này được Mác - Ăngghen chỉ rõ là chưa có một lý luận cách mạng dẫn đường, chưa chỉ ra được mục tiêu của cuộc đấu tranh, chưa có con đường, biện pháp đấu tranh đúng đắn.

Nghiên cứu thực tiễn phong trào đấu tranh và nhất là sự thất bại của nó, Mác - Ăngghen nhận thấy rằng, muốn cho phong trào công nhân giành được thắng lợi phải có lý luận cách mạng soi đường và hai ông đã tập trung xây dựng học thuyết cho phong trào công nhân, đó là lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Tiền đề tư tưởng - văn hóa

+ Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật. Tiêu biểu là các phát minh lớn trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

+ Khoa học tự nhiên: thời kỳ này đã xuất hiện thuyết: Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng (Lômônôxôp; Maye, Julenxơ); học thuyết tế bào (Svác, Slâyden) và học thuyết tiến hoá (Đácuyn). Sự ra đời của những phát minh này đã giúp cho Mác - Ăngghen có cơ sở khoa học để vận dụng, nghiên cứu các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực xã hội và quy luật vận động của xã hội. Trên cơ sở đó, hai ông xây dựng học thuyết duy vật lịch sử của mình.

+ Khoa học xã hội: thời kỳ này các lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội đã phát triển rực rỡ. Tiêu biểu là Triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học nổi tiếng là Hêghen và Phoi -ơ-bắc; Kinh tế chính trị học cổ điển Anh của A.Smith và D.Ricácđô và đặc biệt là lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Ximông, Phuriê, Ô-oen với những giá trị to lớn mà nó đã đạt được.

Như vậy, gắn liền với sự xuất hiện ở mức độ đầy đủ những tiền đề kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học còn dựa trên sự chín muồi của các tiền đề văn hoá - tư tưởng. Đó là kết quả của sự kế thừa những tinh hoa của trí tuệ loài người, phát triển qua các thời đại mà đầu thế kỷ XIX đã đạt tới đỉnh cao.

Tóm lại, sự xuất hiện những tiền đề nêu trên đã tạo ra những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá,- tư tưởng khách quan ở mức độ đầy đủ để chủ nghĩa xã hội thực sự trở thành khoa học do Mác - Ăngghen xây dựng năm 1848 được đánh dấu bằng tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.

Mác - Ăngghen coi những điều kiện nêu trên là mảnh đất hiện thực, cơ sở hiện thực để hai ông xây dựng học thuyết của mình.

b) Điều kiện chủ quan - vai trò của C.Mác - Ph.Ăngghen

Điều kiện khách quan đã tạo ra “mảnh đất hiện thực”, nhưng nếu không có vai trò chủ quan thì chủ nghĩa xã hội không thể trở thành khoa học. C.Mác - Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết Chủ nghĩa xã hội khoa học thông qua các phát kiến vĩ đại, đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử; học thuyết giá trị thặng dư và phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” năm 1848 đánh dấu sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học.

- C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895) là hai nhà triết học vĩ đại của nhân loại, là lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân quốc tế, đã cống hiến toàn bộ cuộc đời của mình cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, những người lao động bị áp bức trên toàn thế giới. Hai ông đã xây dựng học thuyết khoa học, cách mạng cho giai cấp công nhân, học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Trong quá trình xây dựng học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, ở Mác, Ăngghen đã có quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật; đồng thời từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường xã hội chủ nghĩa (hai ông vốn là học trò của Hêghen và xuất thân từ tầng lớp trên).

- Mặt khác, sự uyên bác về trí tuệ; sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn; lòng trung thành vô hạn với lợi ích của giai cấp công nhân và kiên định lập trường giai cấp đã giúp cho hai ông nhận thức đúng được quy luật phát triển của xã hội loài người, nhất là quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản; đồng thời hai ông đã phát hiện một lực lượng xã hội có thể chuyển xã hội sang một giai đoạn mới - đây chính là điểm khác biệt cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác - Ăngghen với các dạng chủ nghĩa xã hội trước đó. Vì vậy, hai ông đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử loài người, trong quá trình ấy Mác - Ăngghen đã có những phát hiện lớn, đóng góp đặc biệt quan trọng cho quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung, quá trình giải phóng quần chúng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột, bất công. Đó là:

- Học thuyết duy vật lịch sử:

+ Mác - Ăngghen cho rằng "tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội", do đó, muốn đi tìm nguyên nhân cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội phải đi tìm nó trong lòng xã hội. Đây là nguyên lý rất quan trọng mà trước đó các nhà triết học khác chưa tìm thấy được (cần phải tìm từ nguyên nhân kinh tế, từ đời sống, lợi ích vật chất, chứ không phải từ ý thức).

+ Mác - Ăngghen chỉ rõ rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội loài người. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất hiện tại và xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Sự phá vỡ này đã dẫn tới sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phù hợp và tiến bộ hơn. Hai ông, đồng thời cũng chỉ rõ: mâu thuẫn cơ bản trong xã hội có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực để thúc đẩy xã hội phát triển. Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới cuộc đấu tranh giai cấp và giai cấp nào đại diện cho phương thức sản xuất mới sẽ đóng vai trò thống trị trong xã hội

- Học thuyết giá trị thặng dư:

+ Vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm duy vật về lịch sử vào việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác - Ăngghen đã đi tới kết luận: việc giai cấp tư sản chiếm đoạt phần lao động không được trả công của người vô sản làm thuê là hình thức cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của sự bóc lột công nhân do phương thức ấy đẻ ra. Dù cho nhà tư bản có mua sức lao động của công nhân đúng với giá trị của nó chăng nữa thì trên thực tế, nhà tư bản vẫn thu được nhiều giá trị hơn số tiền bỏ ra mua sức lao động. Tổng số tiền này rút cuộc biến thành tư bản ngày càng lớn lên và thuộc quyền sở hữu của giai cấp tư sản.

+ Nhờ những phát kiến khoa học trọng đại này, Mác - Ăngghen có căn cứ vững chắc để khẳng định rằng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển được biểu hiện trong đời sống xã hội thành mâu thuẫn không thể điều hoà giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Mâu thuẫn này nhất định sẽ dẫn đến kết cục là lực lượng sản xuất do giai cấp vô sản là người đại biểu phải phá vỡ quan hệ sản xuất do giai cấp tư sản bảo vệ. Giai cấp vô sản là lực lượng cách mạng được lịch sử giao phó sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là phát hiện lớn thứ ba của Mác - Ăngghen. Đây cũng là sự khác biệt căn bản về chất giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với các học thuyết về chủ nghĩa xã hội trước đây.

Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học được Mác - Ăngghen trải nghiệm qua quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn, được phản ánh qua hàng loạt các tác phẩm của hai ông từ 1843 đến 1848 (Phê phán triết học pháp quyền Hêghen - Lời nói đầu; Hệ tư tưởng Đức, Luận cương về Phoi-ơ-bắc, Những nguyên lý cộng sản...) và được đánh dấu bằng tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" 2/1848.

3.2 Các giai đoạn phát triển của Chủ nghĩa xã hội khoa học

- Giai đoạn C.Mác - Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển Chủ nghĩa xã hội khoa học (từ 1848-1895). Giai đoạn này chia thành 2 thời kỳ: trước và sau Công xã Pari.

- Giai đoạn V.I.Lênin bảo vệ, bổ sung và phát triển lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học. Giai đoạn này chia thành 2 thời kỳ: trước và sau cách mạng Tháng Mười Nga 1917.

- Giai đoạn sau khi V.I.Lênin từ trần (1924 đến 1991): các Đảng Cộng sản đã bảo vệ, phát triển lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thực tế, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam .

- Giai đoạn từ 1991 đến nay: sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, Đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học vào điều kiện cụ thể của nước mình (Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Lào...)

- Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.

- Hiện nay trên thế giới xuất hiện những hiện tượng mới phát triển theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa như Vênêduêna và một số nước châu Mỹ La tinh báo hiệu sự phục hồi của phong trào xã hội chủ nghĩa và lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học.

BÀI TẬP

Anh/chị hãy kiểm tra lại kiến thức của mình bằng cách chọn phương án trả lời đúng:

1. “Mảnh đất hiện thực” cho sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học là gì?

a) Điều kiện chủ quan và khách quan của xã hội châu Âu đầu thế kỷ XIX

b) Những phát minh vĩ đại trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội đầu thế kỷ XIX

c) Những điều kiện, tiền đề kinh tế, chính trị, văn hoá - tư tưởng đầu thế kỷ XIX ở các nước châu Âu

d) Sự mâu thuẫn gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội

2. Phát hiện nào dưới đây không phải là của C.Mác - Ph.Ăngghen?

a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng

b) Chủ nghĩa duy vật lịch sử

c) Chủ nghĩa xã hội khoa học

d) Chủ nghĩa kinh tế - chính trị

PHẦN KẾT

Để hiểu sâu hơn và tốt hơn nội dung của bài học, anh/chị cần tập trung ôn tập kỹ hơn vào một số nội dung chính của bài như sau:

- Nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, sự ra đời cũng như hình thức thể hiện của nó qua các giai đoạn phát triển;

- Phân biệt sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Mác và chủ nghĩa xã hội khoa học do C.Mác - Ph.Ăngghen sáng lập;

- Vì sao chủ nghĩa xã hội trước Mác được gọi là không tưởng;

- Tìm hiểu chủ nghĩa xã hội khoa học do C.Mác - Ph.Ăngghen sáng lập đã dựa vào những điều kiện, tiền đề khách quan nào; C.Mác - Ph.Ăngghen đã có công lao như thế nào để Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời.

Chúc các anh/chị học tập đạt kết qủa tốt !

Câu hỏi suy luận: Hãy làm rõ “Mảnh đất hiện thực” cho sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học theo quan điểm của Ăngghen và ý nghĩa của nó đối với chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt Nam ?

ĐÁP ÁN

Phần 1: 1c, 2b

Phần 2: 1a, 2c

Phần 3: 1c, 2d


1 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1975, T.6, tr.33 (tiếng Việt)

2 V.I.Lênin, Toàn tập, NXB. Tiến bộ, M. 1974, T.23, tr.56 (Tiếng Việt)


Bản quyền thuộc Viện Đại học Mở Hà Nội

Không có nhận xét nào: